MẠC SƯƠNG


Join the forum, it's quick and easy

MẠC SƯƠNG
MẠC SƯƠNG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
MẠC SƯƠNG

Chuyên Dưa leo Baby Hà Lan, Đ/c ấp 4 Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai ĐT 0973764405!

Latest topics

» Dưa Tết Canh Tý 2020----ấp 6, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
by gacon 15/1/2020, 9:45 am

» tiemview crack
by macsuong 28/5/2018, 2:30 pm

» cà chua bi trồng hữu cơ rất an toàn cho người dùng
by macsuong 28/5/2018, 9:06 am

» Lệnh điều khiển máy từ xa
by macsuong 28/5/2018, 9:05 am

» TRẢNG BOM NƠI TÔI SỐNG
by macsuong 27/4/2018, 1:01 am

» CÀ CHUA SÔ CÔ LA GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:26 am

» CÀ CHUA F1 RED GIỐNG NGA
by macsuong 27/4/2018, 12:24 am

» cụ thể là chép vào thư mục này
by macsuong 1/11/2017, 10:55 am

» Đặc Sản quê Hương Xứ Nghệ
by macsuong 8/2/2017, 11:03 am

» Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi Hải Dương-981 vào Biển Đông
by macsuong 29/12/2015, 3:52 pm

» File word bị lội "This error message can appear if the document you are
by ngoctram.nhim 19/7/2015, 10:02 pm

» Những câu châm ngôn cuộc sống ý nghĩa
by macsuong 11/11/2014, 11:29 am

» SẢN PHẨM MỚI 10/2014
by bimbip 4/10/2014, 8:17 pm

» Bảng báo giá sản phẩm mỹ nghệ
by macsuong 30/5/2014, 4:31 pm

» Cảm ơn Trung Quốc vì đưa giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam và sau đó...
by macsuong 9/5/2014, 10:16 am

» TẠI SAO TÔI KHÔNG VÀO ĐƯỢC DIỄN ĐÀN?
by gacon 3/12/2013, 9:46 pm

» .....CHÚC MỪNG....
by gacon 3/12/2013, 9:43 pm

» Tạo chương trình khởi động cùng window 7
by macsuong 23/10/2013, 11:01 am

» Nồi cơm khổng tử
by macsuong 26/9/2013, 9:51 pm

» OsMonitor phần mềm giám sát mạng LAN (phần mềm giám sát mạng nội bộ, mạng văn phòng)
by piaorou86 30/3/2013, 11:39 pm


You are not connected. Please login or register

Phan Châu Trinh!

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

1Phan Châu Trinh! Empty Phan Châu Trinh! 1/4/2011, 1:11 pm

macsuong

macsuong
,
,





[You must be registered and logged in to see this image.]
Phan Châu Trinh (1872-1926)
Phan Châu Trinh; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926),
hiệu là Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ
thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.Mục lục [ẩn]

Thân thế
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng
Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh),
tỉnh Quảng Nam.
Cha ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phòng, sau
tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá (Tiên
Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê thị Trung (Chung ?), con gái nhà
vọng tộc, thông thạo chữ Hán, ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước.
Năm Phan Châu Trinh lên 6 tuổi, thì mẹ mất. Quê nhà lại bị
quân Pháp đốt cháy, nên ông phải theo cha, được cha dạy chữ và dạy võ, Sau khi
cha mất (bị thủ lĩnh Nguyễn Duy Hiệu của Nghĩa hội Quảng Nam sai người hạ sát
ngày 15 tháng 6 năm 1886, vì ngờ ông mưu phản[2]), ông trở về quê sống với anh
là Phan Văn Cừ và tiếp tục đi học. Ông nổi tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được
tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng.

Sự nghiệp
Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở
trường Thừa Thiên. Năm sau (1901) triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng (đồng
khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc). Khoảng thời gian này,
người anh cả mất nên Phan Châu Trinh về để tang, ở nhà dạy học đến năm Qúy Mão
(1903)thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.

Vào Nam,
ra Bắc, sang Nhật
Sau khi chán cảnh quan trường. tiếp xúc với nhiều người có
tư tưởng canh tân và đọc được các tân thư[3], năm 1905, ông từ quan, rồi cùng
với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ
năm 1904) làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn
đồng chí hướng.
Đến Bình Định, gặp kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, ba ông
lẩn vào các khóa sinh. Vào trường thi, Phan Châu Trinh làm một bài thơ, còn hai
bạn thì làm chung một bài phú. Cả ba đều ký tên giả là Đào Mộng Giác. Nội dung
bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong khoa trường và
danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nòi khỏi cảnh lao lung[4]

Các tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên
Công sứ Pháp, đồng thời ra lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ông đã rời khỏi Bình
Định, tiếp tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ. Trên đường đi, ba ông lần
lượt kết giao với Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai con trai
của danh sĩ Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh.


Sau cuộc Nam
du, Phan Châu Trinh ra Nghệ-Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các
sĩ phu tiến bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan sát tình hình, nhưng thấy khó có
thể tồn tại lâu dài[5].

Năm 1906, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan
Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính
trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của
xứ sở này[6].

Phát động phong trào Duy Tân
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên
là gửi một bức chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn quyền Jean
Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay
đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân
dân Việt từng bước tiến lên văn minh.





Sau đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân
quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng
Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc
bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Phương thức hoạt động của
phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, cải cách
trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ chương, phát động phong
trào học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín
dị đoan, kêu goị cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay,... Thời gian này, ông viết
bài Tỉnh quốc hồn ca, kêu gọi mọi người duy tân theo hướng dân chủ tư sản như
vừa lược kể[5].

Hưởng ứng, ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận, nhiều
trường học, thư xã, thương hội, hội nghề nghiệp...lần lượt được lập ra.

Tháng 7 năm 1907, Phan Châu Trinh nhận lời mời ra Hà Nội
tham gia diễn giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh nghĩa thục.
Bị giam lần thứ nhất
Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra,
và bị nhà cầm quyền Pháp sai quân đi đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều
thành viên trong phong trào Duy Tân bị đối phương buộc tội là đã khởi xướng nên
đều bị bắt[7]

Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Tòa Khâm sứ
Huế và Nam
triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những người
Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, họ buộc lòng
phải kết ông án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên”(nghĩa là
chém nhưng giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày
đi Côn Lôn ngày 4 tháng 4 năm 1908.

Nhờ dư luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân
quyền ngay trên đất Pháp, đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của
Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh. Tháng 8 năm
đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án cho ông
được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở đây, ông làm nhiều bài
thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Bộ.


Bởi không hoạt động gì được, ông viết thư cho Toàn quyền
Đông Dương đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không chịu cảnh
bị giam lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908
của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911,
chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan
Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật (1897-1921).



Sang Pháp, bị giam lần thứ hai
Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền
Pháp bản điều trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ
năm 1908 (thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).

Sau đó, ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở
Côn Lôn bị đối xử tồi tệ, và nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng xã hội Pháp can
thiệp nhằm giảm án cho các đồng chí của mình. Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần
với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc địa, với Albert Saurraut (sắp sang nhậm
chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị ở Việt Nam nhưng không
có kết quả, vì lúc này thế lực của thực dân hãy còn đang mạnh. Trong khoản thời
gian này, ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam.

Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo – Hung tuyên chiến với Serbia, mở màn
cho Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến
với Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền thủ đô Paris (Pháp) gọi Phan Châu
Trinh và Phan Văn Trường (là một luật sư, một nhà báo yêu nước người Việt) đi
lính, nhưng hai ông phản đối[8]. Mấy tháng sau, họ vu cho hai ông là gián điệp
của Đức để rồi bắt giam Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh
bị giam ngục Santé Prison de la Santé kể từ tháng 9 năm 1914.

Ông vào tù thì bị tước ngay trợ cấp, con ông mất học bổng,
phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ ông[9] qua đời ở quê nhà ngày 12
tháng 5 năm 1914.

Tháng 7 năm 1915, vì không đủ bằng chứng buộc tội, họ phải
trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng giam giữ. Trong tù, ông soạn Santé thi
tập (hơn 200 bài).

Ra tù, Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các
hiệu chụp ảnh để kiếm sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ,
cảnh ngộ của hai cha con rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải bỏ
học về nước vì bị lao ruột và qua đời tại Huế ngày 14 tháng 02 năm 1921. Sau
đó, thi hài ông được đem về an táng cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước, Quảng Nam).

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của nhân
dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái
Quốc", và đã gây được tiếng vang.

Năm 1922 khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille,
ông viết một bức thư dài buộc tội vua Khải Định 7 điều và khuyên vua về nước
gấp, đừng làm nhục quốc thể (quen gọi là Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều).
Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh Quốc hồn ca mới. Xuyên suốt tác phẩm này
vẫn là một đường lối cải cách dân chủ, vẫn là thực trạng tăm tối của xã hội
thực dân phong kiến và những thủ đoạn tàn bạo của chính sách thuộc địa ở Việt Nam.

Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều
lần Phan Châu Trinh xin nước, nhưng đến năm 1925, khi sức khỏe ông đã suy yếu,
mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Khoảng thời gian này, ông viết cuốn Đông
Dương chính trị luận.

Về nước rồi qua đời
Mộ Phan Châu Trinh tại Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng
trẻ Nguyễn An Ninh (1900-1943) xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26 tháng 6
cùng năm thì về tới Sài Gòn. Sau đó, ông Ninh đưa Phan Châu Trinh về thẳng
khách sạn Chiêu Nam Lầu (tại nhà số 49, đường Nguyễn Huệ ngày nay) của Nguyễn
An Khương (cha ông Ninh và là một thành viên của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ).
Ở đây mấy ngày, thì Phan Châu Trinh được về nhà riêng của ông Khương ở Mỹ Hòa
(nay thuộc huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh) để tiện việc tiếp đón bạn bè
đến thăm và trao đổi công việc, đồng thời cũng để tiện cho Nguyễn An Cư (chú
của ông Ninh, một lương y nổi tiếng) chăm sóc sức khỏe.

Tuy bị bệnh nhưng Phan Châu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm
hai đề tài là Ðạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ
nghĩa. Hai bài này đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn, trong
đó có Tạ Thu Thâu (1906-1945).




Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin
Nguyễn An Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa
ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, Phan Châu Trinh trút
hơi thở cuối cùng tại khách sạn Chiêu Nam Lầu, và được đem quàn tại nhà số 54
đường Pellerin (nhà của Huỳnh Đình Điển, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai -
tức đường Pasteur trước 1975).





Một Ủy ban tổ chức lễ quốc táng nhà yêu nước Phan Châu Trinh
đã được hình thành ngay trong đêm ông qua đời. Những thành viên của ủy ban tổ
chức lễ quốc tang nhà yêu nước Phan Châu Trinh gồm nhiều nhân sĩ, trí thức.
Toàn dân Sài Gòn khoảng 60 ngàn người, không phân biệt chính trị, đảng phái,
tôn giáo tham dự, đưa linh cữu cụ Phan Châu Trinh đến nơi an nghỉ cuối cùng vào
lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926 tại nghĩa trang của hội Gò Công tương
tế. Và bất chấp sự ngăn cản của thực dân, phong trào làm lễ truy điệu Phan Châu
Trinh ở khắp ba kỳ, là một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy giờ.





Khu mộ của ông hiện ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh
và được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, tên ông được dùng
để đặt tên cho nhiều đường phố và trường học trong khắp nước Việt Nam.





Chủ trương cách mạng





Điểm lược một vài nét chính:





Sau khi cáo quan về quê, Phan Châu Trinh dốc lòng vào công
việc cứu nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt
Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục
chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà nhiệm vụ cấp bách
là phải:


Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy
chữ Quốc ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.


Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi
người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.


Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm
vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...





Cho nên sau khi ông vào Nam ra Bắc, sang Nhật, để trao đổi
và tìm hiểu, cuối cùng ông nhất quyết làm cuộc cải cách duy tân cho quốc dân
trong nước. Ngoài ra, ông gửi thư cho Toàn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm 1906,
chỉ trích chính phủ Pháp không lo mở mang khai hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế
cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên
thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị.
Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất
mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước.





Đối với đường lối hoạt động cứu nước của người bạn thân là
Phan Bội Châu (tháng 7 năm 1904, hai ông gặp nhau và sau đó trở thành đôi bạn
thân thiết), Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc bạn và tổ chức của bạn (Duy
Tân hội) đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến
những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối
chủ trương bạo động và tư tưởng bảo hoàng của người bạn này[10].





Tác phẩm


Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)


Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)


Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)


Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và
Phan thúc Duyên năm 1910)


Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)


Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp,
1915)


Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)


Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (hồm hơn 7.000 câu thơ lục bát,
soạn 1912-1913)


Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907),
phần II, làm khi sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào,
tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền)


Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925)


Đông Dương chính trị luận (1925)





Ngoài ra, ông còn có các bài diễn thuyết về Đạo đức và luân
lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm
trong Tây Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912...





Thương tiếc





Phan Châu Trinh qua đời, có rất nhiều liễn đối và thơ văn
điếu ông. Trong số đó có bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng, người bạn thân
thiết của ông, mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan điểm chính trị của Phan
Châu Trinh. Trích một đoạn:


...Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào
bị tù đày, ở nước này sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây
phút này không thể lược thuật lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói
sơ: Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do,
còn cái phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường nói rằng:


-Tình hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu
muốn cải cách thì cần liên lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước mình còn
đang mê mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người . Vì vậy mà tấm lòng
bị phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy tai
nghe dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!


-Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh
hùng, ngày nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên
sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh hồn tiên sinh sẽ
được yên ổn mà ngậm cười nơi suối vàng.





Một vài nhận xét





Trích một vài ý kiến (chỉ để tham khảo):


Nhà sử học Phạm Văn Sơn:


Chủ trương của Phan Châu Trinh là muốn thi hành một chính
sách cải lương cho dân tộc Việt Nam.
Chính sách mày đòi hỏi ba điều căn bản, đó là: "Khai thông dân trí, loại
bỏ quan trường mục nát và tôn trọng dân quyền"...Nhưng nhờ vào ai để thi
hành chủ trương trên đây? Ông nhờ Pháp (ỷ Pháp cầu tiến bộ). Nhưng có bao giờ
giai cấp bị trị lại nhờ được tầng lớp thống trị cải thiện đời sống hay làm cách
mạng cho mình?. Người Pháp từ vạn dặm đến đây, đổ bao xương máu vì lợi ích
riêng của họ. Sao ta lại có thể đòi hỏi họ giúp ta giàu mạnh, khôn ngoan? Họ
cần dân ta ngu hèn, quan lại vong bổn mới có thể khai thác dân ta đến tận xương
tủy chứ?...Do đó, ta thấy chủ trương của ông quả là không tưởng...Về sau này,
nhờ sống 15 năm trên đất Pháp, ý thức cách mạng của ông đã tiến bộ nhiều qua
bài diễn thuyết về đề tài "Quân trị và dân trị" vào đêm 19 tháng 11
năm 1925 tại Sài Gòn.


Dù có những nhận định khác nhau về lập trường chính trị Phan
Châu Trinh, nhưng không ai không công nhận ông là một người có tư tưởng dân chủ
sớm hơn hết ở Việt Nam[11].


GS. Huỳnh Lý:


Phan Châu Trinh là một con người hoạt động, một chí sĩ yêu
nước nồng nhiệt, dũng cảm, bất khuất, có đầu óc tổ chức và đầy sáng kiến, có
những chủ trương dứt khoát và mạnh bạo, như chủ trương cần phải lật đổ bộ áy
phong kiến chứ không thể dựa vào nó, cần phải nâng trình độ nhân dân lên về mọi
mặt: dân quyền, dân sinh, dân chủ, và muốn thế phải làm một cuộc vận động “tự
lực khai hóa” rộng lớn...


Tuy nhiên, vào thời điểm lịch sử của ông, khi thế lực của
chủ nghĩa thực dân trên toàn cầu còn rất mạnh, việc ông yêu cầu hết chính phủ ở
Đông Dương đến chính khách tư sản ở Pháp, thực hiện cải cách chính trị trước
sau đều vấp phải trở lực…nên cuối cùng dẫn ông đến thất bại.


Về sáng tác thơ văn, Phan Châu Trinh đã góp phần vào việc
thức tỉnh nhân tâm, làm dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi trong ba thập niên
đầu thế kỷ 20[12].


Nhóm tác giả sách Đại cương cương lịch sử Việt Nam:


Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy
Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có
thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước
tiến bộ đầu thế kỷ 20.


Đặc biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân
tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt chính giữa ông và
Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh xem vấn đề dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và
tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ để quét
sạch những hủ bại của phong kiến. Với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời
gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khổ và thanh bạch,
ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ[1



[You must be registered and logged in to see this image.]
Đám tang cụ Phan Châu Trinh

[You must be registered and logged in to see this image.]
Tượng đài Phan Châu Trinh


theo vi.wikipedia.org

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết